Từ năm 1990, Nhà nước ban hành hai đạo luật dành cho doanh nghiệp, mở ra một kỷ nguyên mới cho sự phát triển kinh tế của nền kinh tế Việt Nam. Sau gần 30 năm kề từ khi có những đạo luật đầu tiên cho doanh nghiệp, bộ mặt kinh tế – xã hội của Việt Nam thay đổi rõ rệt, trở thành một đất nước có nền kinh tế năng động, nhiều tiềm năng và thu hút đầu tư.
- Tình hình pháp luật về Công ty, Doanh nghiệp của Việt Nam nói chung trước khi Luật về doanh nghiệp, công ty đầu tiên ra đời (năm 1990)
Mặc dù hoạt động thương mại tại Việt Nam đã có từ lâu và tồn tại song song cùng hoạt động thương mại của thế giới nhưng mức độ, quy mô phát triển còn hạn chế. Từ thời phong kiến, Nhà nước đã ban hành nhiều đạo luật điều chỉnh hoạt động thương mại như: Bộ luật hình thư (thời Lý), Quốc triều hình luật (thời Trần), Bộ luật Hồng Đức (thời Lê) và Hoàng Việt luật lệ (thời Nguyễn), tuy nhiên, chưa có đạo luật nào quy định về “Công ty” hay “Doanh nghiệp”.
Cho đến thời Pháp thuộc, một số quy định về thương mại của Pháp cũng được áp dụng tại Việt Nam, vì khi đó, Việt Nam là thuộc địa của Pháp. Luật lệ về công ty có thể được quy định lần đầu tại Việt Nam trong “Dân luật được thi hành tại các tòa Nam Án – Bắc Kỳ” năm 1931, trong đó nói về “hội buôn”. Đạo luật này chi các công ty (hội buôn) thành hai loại là “Hội người” và “Hội vốn”. Trong “Hội người” gồm hội hợp danh (công ty hợp danh), hội hợp tư (công ty hợp vốn đơn giản) và hội đồng lợi (những người có cùng chung lợi ích). Trong “Hội vốn” có hội vô danh (công ty cổ phần) và hội hợp cổ (công ty hợp vốn đơn giản cổ phần). Trong đạo luật này không có công ty TNHH.
Năm 1944, chính quyền Bảo Đại xây dựng Bộ luật Thương mại Trung phần. Năm 1972, chính quyền Sài Gòn ban hành Bộ luật Thương mại Việt Nam cộng hòa, trong đó có quy định về Công ty. Ở Việt Nam thời Pháp thuộc xuất hiện nhiều loại hình công ty dưới hình thức “Hội”. Luật Công ty ở Việt Nam gắn liền với Luật Dân sự và Luật Thương mại.
Từ sau năm 1954, đất nước choa cắt làm hai miền, do đó cũng có hai hệ thống pháp luật khác nhau. Ở miền Bắc tiến hành xây dựng nền kinh tế theo mô hình kế hoạch tập trung với hai thành phần kinh tế chủ yếu là “quốc doanh” và “tập thể”. Nhà ước lập ra các xí nghiệp quốc doanh (sau này là doanh nghiệp nhà nước do nhà nước năm giữ 100% vốn). Trong nền kinh tế tập trung, thuật ngữ “Công ty” được sử dụng cho các đơn vị kinh tế chuyên hoạt động trong lĩnh vực thương nghiệp, dịch vụ để phân biệt với các đơn vị kinh tế chuyên sản xuất (gọi là nhà máy, xí nghiệp). Như vậy, trong bối cảnh đó, Công ty hiểu theo bản chất pháp lý không tồn tại (về cả tư duy lý luận và thực tiễn), từ đó cũng tất yếu dẫn tới việc không có luật Công ty (hay luật doanh nghiệp).
Ở miền Nam, công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước vẫn đang sục sôi trong từng con hẻm, thể chế pháp luật không giống với miền Bắc. Tại miền Nam, Chính phủ Việt Nam Cộng hòa tập trung việc xây dựng bộ máy chính quyền, đàn áp phong trào yêu nước, đấu tranh chống khủng bố, đòi hòa bình và các quyền tự do dân chủ của nhân dân miền Nam, vì thế hệ thống pháp luật tại miền Nam Việt Nam về cơ bản là một công cụ để phục vụ cho mục đích trên. Tuy vậy, không thể phủ nhận rằng, Chính phủ Việt Nam Cộng hòa cũng đã xây dựng hệ thống pháp luật về thương mại, doanh nghiệp, công ty cũng đã được xây dựng để điều chỉnh quan hệ xã hội về lĩnh vực này.
Ngày 30/04/1975 là một trong những dấu son chói lọi chất trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc, khi “Bắc – Nam sum họp một nhà”. Khoảnh khắc lịch sử ấy không chỉ là tiền đề đầu tiên làm cho toàn bộ cục diện kinh tế – xã hội của đất nước thay đổi, mà đây cũng là điều kiện để hệ thống pháp luật nói chung được xây dựng, hoàn thiện và thống nhất, trong đó có pháp luật về doanh nghiệp.
- Luật Doanh nghiệp tư nhânvà Luật Công ty năm 1990
Rút kinh nghiệm từ những sự chưa phù hợp trong chính sách kinh tế tại miền Bắc thời kỳ trước, từ năm 1986, Việt Nam đề ra đường lối xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Đây chính là cơ sở và điều kiện để pháp lý cho các Công ty, Doanh nghiệp ra đời.
Ngày 21/12/1990, Quốc Hội đã thông qua Luật Công ty (Luật số 47-LCT/HĐNN8) và Luật Doanh nghiệp tư nhân (Luật số 48-LCT/HĐNN8). Hai luật này góp phần không nhỏ trong việc “thực hiện đường lối phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn, lao động và tài nguyên của đất nước, tạo thêm việc làm; bảo hộ lợi ích hợp pháp của người góp vốn đầu tư, đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế; tăng cường hiệu lực quản lý Nhà nước đối với các hoạt động kinh doanh”.
Luật Công ty 1990 và Luật doanh nghiệp tư nhân 1990 là những văn bản pháp lý đầu tiên quy định về việc thành lập và hoạt động của các chủ thể kinh doanh thuộc thành phần kinh tế tư nhân. Lúc này, khối kinh tế tư nhân được pháp luật quy định gồm các loại hình: Công ty TNHH, Công ty cổ phần (theo Luật Công ty 1990) và Doanh nghiệp tư nhân (theo Luật Doanh nghiệp tư nhân năm 1990). Thế nhưng, mặc dù đều có hiệu lực từ 15/04/1991, nhưng phải đến năm 1992, khi Quốc Hội ban hành Hiến pháp mới, công nhận công dân có quyền tự do kinh doanh theo quy định của pháp luật thì Luật doanh nghiệp tư nhân và Luật Công ty mới thực sự đi vào hoạt động chính thức.
Sự ra đời của Luật Doanh nghiệp tư nhân và Luật Công ty năm 1990 tuy sơ sài nhưng đây là một sự kiện trọng đại, mở ra một hành lang pháp lý và con đường phát triển của doanh nghiệp khối tư nhân về sau.
Tuy nhiên, thực tế áp dụng pháp luật lại gặp rất nhiều khó khăn và gây ra nhiều rào cản về mặt thủ tục hành chính đối với doanh nghiệp. Thời đó, muốn thành lập một doanh nghiệp phải có rất nhiều chữ ký và con dấu, thời hạn cấp phép hoạt động cho doanh nghiệp có thể kéo dài đến vài năm. Qua những quy định trong luật và quá trình thực thi trong thực tiển, dường như Nhà nước vẫn còn thận trọng và đặt nhiều hoài nghi cho hoạt động của khối kinh tế tư nhân, nên phải xem xét thật kỹ để cho phép thành lập một doanh nghiệp.
Chúng ta không thể phủ nhận những thành tựu mà hai đạo luật trên mang lại. Song trong quá trình thi hành cũng xuất hiện các bất cập lớn cần phải sửa đổi, bổ sung: Thủ tục thành lập doanh nghiệp rườm rà, trải qua hai giai đoạn thành lập và đăng ký kinh doanh đã tạo ra một cơ chế xin – cho gây nhiều phiền hà cho các nhà đầu tư; các quy định về vốn pháp định, đã ngăn cản số lượng lớn những người muốn thành lập doanh nghiệp và tham gia vào nền kinh tế; ciệc quy định một cách thiếu rõ ràng về trách nhiệm của các cơ quan quản lý Nhà nước cũng như sự phối hợp giữa các cơ quan này tạo ra một cơ chế quản lý nhà nước không chặt chẽ và gây nhiều khó khăn cho doanh nghiệp.
Chính bởi sự phát triển nhanh chóng và thay đổi liên tục về mọi mặt của đời sống xã hội cũng như những bất cập, nhiêu khe trong các thủ tục hành chính đối với doanh nghiệp nêu trên đã khiến cho Luật doanh nghiệp tư nhân và Luật Công ty này trở nên không phù hợp. Việc này đòi hỏi cần phải ban hành một đạo luật mới về doanh nghiệp có phạm vi điểu chỉnh rộng hơn, nội dung đẩy đủ, bao quát hơn và phù hợp hơn với yêu cầu quản lý Nhà nước và yêu cầu đa dạng hóa hình thức kinh doanh, thúc đẩy, huy động phát triển nội lực phát triển kinh tế trong thời đại mới. Từ đó, Luật doanh nghiệp năm 1999 ra đời trên cơ sở hợp nhất Luật Doanh nghiệp tư nhân và Luật Công ty 1990.
Do đó, ngày 12/06/1999, Quốc Hội đã thông qua Luật doanh nghiệp trên cơ sở “sáp nhập Luật Công ty và Luật Doanh nghiệp tư nhân” năm 1990.
Luật Doanh nghiệp 1999 có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2000 dưới thời Thủ tướng Phan Văn Khải được cho là một trong những đột phá lớn về đổi mới thể chế và thay đổi cung cách điều hành phát triển đất nước, cho thấy tầm nhìn của ông trước các vấn đề đến nay vẫn còn mang tính thời sự.
Luật Doanh nghiệp 1999 ra đời với 02 nội dung quan trọng và nổi bật: mọi tổ chức và công dân đều có quyền tự do kinh doanh theo pháp luật, nhà nước tổ chức quản lý, giám sát theo nguyên tắt công khai, minh bạch.
Đây là lần đầu tiên trong lịch sử, Chính phủ mời đại diện cộng đồng doanh nghiệp tham gia soạn thảo luật cho chính mình.
Luật ban hành với những nội dung mới nổi bật:
– Bỏ thủ tục xin giấy phép thành lập;
– Bỏ mức vốn pháp định với hầu hết ngành nghề kinh doanh;
– Quy định về công ty TNHH Một thành viên và Công ty hợp danh.
Đây là luật mà đích thân thủ tướng Phan Văn Khải trực tiếp chỉ đạo thi hành luật, chỉ sau 28 ngày kế từ ngày luật có hiệu lực thi hành, Chính phủ, thủ tướng đã ban hành đầy đủ các văn bản hướng dẫn thi hành. Đây thực sự là một kỷ lục mà chưa có trường hợp nào vượt qua.
Nói tới đây, phải nói rằng danh xưng “thủ tướng của doanh nghiệp” không phải tự nhiên mà có, mà chính là từ những hành động quyết liệt của thủ tưởng Phan Văn Khải lúc bấy giờ dành cho doanh nghiệp và dành cho nền kinh tế.
Ngay từ năm đầu tiên khi luật doanh nghiệp năm 2000 có hiệu lực, Thủ tướng Phan Văn Khải đã xóa bỏ hơn 240 giấy phép con. Mặc dù để xóa bỏ được những giấy phép này không đơn giản, phải làm việc với các Bộ, ngành, đôi khi phải đấu tranh rất quyết liệt mới bỏ được.
Thủ tướng cũng là người đầu tiên ký Nghị định phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa của Việt Nam.
Ông luôn xác định xây dựng hệ thống pháp luật đưa nền kinh tế phát triển theo hướng thị trường, là nền tảng quan trọng nhất để đất nước phát triển.
Có thể nói, lịch sử kinh tế của đất nước có sự đóng góp công sức của nguyên Thủ tướng Phan Văn Khải như một nhà lãnh đạo có nhiều ý tưởng, công lao cải cách, hội nhập.
Luật Doanh nghiệp ra đời là khâu đột phá trong đổi mới tư duy kinh tế và mang lại nhiều thành tựu đột phá đáng ghi nhận, là bước phát triển trong khâu gia nhập thị trường khi được tự do kinh doanh, thủ tục tham gia kinh doanh đơn giản, ít tốn kém. Luật doanh nghiệp đã làm môi trường kinh doanh được cải thiện và bộ mặt kinh tế Việt Nam được khởi sắc.
(Còn nữa)
Ghi chú: Bài viết được Ban biên tập On Point HRB Việt Nam tổng hợp lại từ các nguồn thông tin trên các website, các tài liệu học tập mang tính chuyên môn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Giáo trình Luật Doanh nghiệp – Nhà xuất bản Đại học Giáo dục.
- Luật Doanh nghiệp
- Bài viết trên Website: https://thuvienphapluat.vn/phap-luat-doanh-nghiep/bai-viet/hanh-trinh-lich-su-cua-luat-doanh-nghiep-phan-2-338.html