Với bất kỳ doanh nghiệp nào, năng suất lao động là hạt nhân tối quan trọng quyết định đến sự tồn tại và phát triển bền vững của doanh nghiệp. Vậy các yếu tố tố nào có thể ảnh hưởng đến năng suất lao động của doanh nghiệp.

Một cách hiểu ngắn gọn và đơn giản mà Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) đưa ra về năng suất lao động đó là: Năng suất lao động thường được định nghĩa là số lượng sản phẩm (GDP) được tạo ra trên một đơn vị người lao động làm việc (hoặc trên mỗi giờ lao động). Ví dụ: Một người lao động trong một ngày làm việc sẽ tạo ra ra 10 sản phẩm, thì năng suất lao động của người lao động đó là 10 sản phẩm/ngày. Mỗi sản phẩm này có giá trị là 4 USD, vậy tổng giá trị sản phẩm mà người lao động tạo ra trong 01 ngày làm việc là 40 USD.

Như vậy, năng suất lao động phản ánh tính lợi nhuận, tính hiệu quả, giá trị chất lượng, sự đổi mới chất lượng cuộc sống. Đó là một chỉ tiêu tổng hợp đánh giá hiệu quả kinh tế xã hội được lượng hoá bằng mức tăng giá trị gia tăng của tất cả các nguồn lực và yếu tố tham gia vào một quá trình hay một loạt các hoạt động kinh tế trong một thời gian nhất định.

Vậy, đâu là yếu tố có thể ảnh hưởng tới năng suất lao động?

Các yếu tố ảnh hưởng đến năng suất lao động

  1. Chất lượng lao động

Chất lượng lao động là yếu tố đầu tiên và vô cùng quan trọng đối với việc quyết định tăng trưởng năng suất lao động. Kể cả khi áp dụng khoa học kỹ thuật công nghệ, máy móc thiết bị hiện đại thì lực lượng lao động là “con người” lại càng phải có trình độ chuyên môn, kỹ thuật cao tương ứng. Bên cạnh kinh nghiệm làm việc được tích lũy trong nhiều năm lao động, nếu người lao động có trình độ học vấn cao thì sẽ có khả năng tiếp thu nhanh chóng những tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, từ đó tạo ra hiệu quả làm việc cao nhất. Điều này phụ thuộc nhiều vào chương trình đào tạo, giáo dục của các trường Đại học, Cao đẳng hoặc Dạy nghề.

 

Sự gia tăng mức năng suất phản ánh sự cải thiện về hiệu quả đầu vào. Do đó, cùng một mức độ các yếu tố đầu vào có thể tạo ra mức sản lượng cao hơn và chi phí sản xuất sẽ giảm xuống. Nói cách khác, nó phản ánh sự cải thiện chất lượng đầu vào. Mối quan hệ tích cực giữa vốn con người và năng suất chịu ảnh hưởng nhiều của tỷ lệ tiền lương. Khi người lao động nhận được mức lương cao hơn sẽ khuyến khích họ làm việc chăm chỉ hơn và góp phần làm năng suất cao hơn. Người lao động có trình độ học vấn và kỹ năng đào tạo cao hơn có xu hướng nhận được tiền lương cao hơn và họ đóng góp nhiều hơn vào phát triển nghề nghiệp, từ đó góp phần làm tăng năng suất lao động.

Đại diện cho trình độ tay nghề của người lao động có thể sử dụng các chỉ tiêu: Tỷ lệ lao động đã qua đào tạo; số lao động được đào tạo ngoài công việc trong thời gian ngắn hạn và số năm đi học của người lao động.

  1. Tiền lương

Năng suất lao động và tiền lương có mối quan hệ tương hỗ, thuận chiều. Tiền lương là một yếu tố quan trọng góp phần tạo động lực thúc đẩy người lao động làm việc nâng cao năng suất lao động. Nói cách khác, đối với người lao động, tiền lương là một khoản thu nhập chính, để tăng tiền lương họ phải tăng năng suất lao động. Đại diện cho nhóm nhân tố tiền lương có thể sử dụng chỉ tiêu tiền thu nhập bình quân tháng của người lao động.

  1. Vốn đầu tư

Muốn nâng cao năng suất lao động, bản thân các doanh nghiệp phải có nguồn vốn đủ lớn để đầu tư mua sắm máy móc, thiết bị, dây chuyền công nghệ hiện đại. Quy mô vốn hạn hẹp, công nghệ sản xuất lạc hậu là nhân tố cản trở tăng trưởng năng suất lao động. Việc sử dụng vốn đầu tư hiệu quả cao hay thấp cũng ảnh hưởng không nhỏ tới tốc độ tăng trưởng cơ sở vật chất của từng ngành và toàn nền kinh tế, qua đó tác động tới tăng trưởng năng suất lao động.

Theo kết quả nghiên cứu của Cin, B.C., Kim, Y.J. & Vonortas, N.S. (2017) khẳng định cường độ vốn có quan hệ tỷ lệ thuận với năng suất lao động. Tăng cường độ vốn sẽ làm gia tăng năng suất lao động của các doanh nghiệp sản xuất vừa và nhỏ của Hàn Quốc. Theo Nguyễn Văn Đông (2016), vốn đầu tư có tác động tích cực đến năng suất lao động của doanh nghiệp ở Việt Nam. Nguyễn Thanh Hải, Nguyễn Thị Lê Hoa (2016) đã chỉ ra doanh nghiệp có triển khai thực hiện các dự án nghiên cứu và phát triển (Research and Development, viết tắt là R&D), có vốn đầu tư cho hoạt động R&D có năng suất lao động cao hơn doanh nghiệp không chú trọng tới hoạt động đầu tư này.

Đại diện cho nhóm nhân tố vốn đầu tư có thể sử dụng các chỉ tiêu: Tổng vốn đầu tư; vốn sản xuất kinh doanh bình quân; năng suất vốn và cường độ vốn.

  1. Khoa học và công nghệ

Khoa học công nghệ (được coi là một yếu tố tác động trực tiếp để nâng cao năng suất lao động thông qua sử dụng thay thế sức người bằng máy móc thiết bị làm giảm nhẹ cường độ lao động, tăng giá trị sản phẩm… Đối với nền kinh tế phát triển, khoa học và công nghệ là những điều kiện cơ bản, thiết yếu cho sự phát triển nhanh chóng.

“Tiến bộ công nghệ” (technical progress) là những cách thức mới và tốt hơn để tạo ra sản phẩm, dịch vụ và sử dụng các nguồn tài nguyên ngày càng khan hiếm một cách năng suất hơn. Tiến bộ công nghệ gồm các hoạt động phát minh ra công nghệ (như các hoạt động: nghiên cứu và phát triển tạo ra công nghệ mới, cải tiến liên tục của công nghệ) và thương mại hóa công nghệ (ứng dụng của các công nghệ trên từng ngành hoặc toàn xã hội).

  1. Tiếp cận tài chính

Bất kỳ doanh nghiệp nào khi tham gia vào thị trường, vốn chính là yếu tố tiên quyết quyết định sự tồn tại của doanh nghiệp. Rất nhiều doanh nghiệp, nhất là những doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Việt Nam đều khó khăn khi tiếp cận vốn, tài chính. Điều này khiến doanh nghiệp không tuyển dụng được lao động có trình độ tốt, không sử dụng được máy móc công nghệ hiện tại vào sản xuất, kinh doanh…dẫn tới năng suất lao động thấp, từ đó ảnh hưởng tới sự tồn tại của doanh nghiệp trên thị trường.

Hơn nữa, tài chính của doanh nghiệp ngoài vốn đầu tư của chủ sở hữu/cổ đông, thì nguồn vốn vay từ các ngân hàng, tổ chức tín dụng, quỹ đầu tư là nguồn vốn dồi dào mà hầu hết các doanh nghiệp đều muốn tiếp cận. Tuy nhiên, không phải doanh nghiệp nào cũng đủ điều kiện tiếp cận vay vốn và không phải doanh nghiệp nào cũng được ngân hàng, tổ chức tín dụng, quỹ đầu tư chấp thuận cho vay. Do đó, tiếp cận tài chính chính là một trong những nhân tố, dù không trực tiếp nhưng lại là yếu tố quan trọng tác động tới năng suất lao động.

  1. Chính sách – pháp luật

Các chính sách kinh tế của Nhà nước có tác động mạnh đến sự tăng trưởng kinh tế của mỗi quốc gia. Sự khuyến khích hay không khuyến khích sẽ tác động đến sự gia tăng mức tăng trưởng hay kìm hãm sự phát triển của một số ngành kinh tế, qua đó tác động đến tăng trưởng năng suất lao động. Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng vốn và hiệu quả quản lý hành chính ở doanh nghiệp và ở địa phương có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Theo nghiên cứu của Drabek và Payne (2002) cho rằng, tính minh bạch trong quản lý hành chính của một quốc gia sẽ tạo sức hút rất lớn để tăng đầu tư và vốn từ nước ngoài. Batra et al (2001) và Emery (2003) cùng đưa đến kết luận như nhau, họ cho rằng quá trình quản lý hành chính kém hiệu quả sẽ là nhân tố quan trọng quyết định đến lượng đầu tư tư nhân và tác động tới năng suất lao động. Lambsdorff (2003) cũng khẳng định rằng tham nhũng sẽ ảnh hưởng xấu tới dòng vốn. Nghiên cứu của Kelly (2014) cho thấy rằng tham nhũng là một trong những nhân tố làm giảm đáng kể năng suất kinh tế của quốc gia.

  1. Truyền thông

Một yếu tố mới tưởng chừng không ảnh hưởng tới năng suất lao động nhưng thực ra lại có vai trò quan trọng đối với doanh nghiệp nói chung và gián tiếp tác động tới năng suất lao động nói riêng.

Mục đích của hoạt động truyền thông doanh nghiệp chính là thiết lập, quảng bá sản phẩm. Nhờ đó, thương hiệu có được giá trị dài hạn, tạo được sự tin tưởng từ phía khách hàng. Với đà phát triển sẵn có đơn vị, tổ chức đó sẽ ngày càng thăng tiến trên con đường kinh doanh. Vậy tác động của truyền thông tới năng suất lao động thể hiện như thế nào?

  • Truyền thông làm tăng sự nhận diện thương hiệu, nâng cao vị trí của doanh nghiệp trên thị trường. Doanh nghiệp được truyền thông tốt và bài bản sẽ tạo được niềm tin và xu thế lựa chọn tiêu dùng của khách hàng. Vì vậy, doanh nghiệp phải đẩy cao năng suất lao động để đáp ứng nguồn “cầu” này.
  • Truyền thông không chỉ hướng tới khách hàng bên ngoài mà còn tác động trực tiếp tới việc quản trị doanh nghiệp. Từ truyền thông sẽ góp phần nâng cao sự gắn kết giữa lãnh đạo với nhân viên, nhân viên với nhân viên, nhân viên với doanh nghiệp. Từ đó xây dựng văn hóa doanh nghiệp, tính chủ động và trách nhiệm trong mỗi hoạt động của người lao động, người quản lý và chủ doanh nghiệp./.

 


Bài viết được sưu tầm bởi Ban biên tập On Point HRB Việt Nam.